Dân tộc Brâu còn có tên gọi khác là Brao. Tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, uyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
Nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer

Dân số: 350 người (ước tính năm 2003).




Đặc điểm kinh tế: người Brâu có truyền thống du canh du cư. Họ chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngô, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt; năng suất cây trồng thấp.

Hôn nhân gia đình: Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.

Tục lệ ma chay: Theo phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... bỏ lại trong nhà mồ là số của cải gia đình cho người chết.

Văn hóa: Người Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyền. Chiêng cồng có các loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thường chơi Krông pút – loại nhạc cụ được ghép bởi 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều, âm thanh được tạo ra bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới... người Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.


  

Chiêng tha là loại nhạc cụ truyền thống của người Brâu


Nhà cửa: Người Brâu rất chú trọng đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chạy dọc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo. Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng.

Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Trong nhà chia đôi theo chiều dọc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm họ ra ngủ tại nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.

Trang phục:

Trang phục nam: Thường nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14-16 phải cưa bốn răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình.




Trang phục nữ: Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn. Xưa mình trần, mặc váy hở, quấn quanh thân. Mùa lạnh họ mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Phụ nữ còn mang trên cổ một vài chuỗi hạt cườm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc cũng như vòng tay bằng các chất liệu trên.

Nhận xét